Ánh sáng cuối đường

Cứ đến ngày hôm nay là mẹ lại dậy thật sớm, xuống bếp nhóm lửa, vo gạo nấu một nồi cơm nếp, rồi vừa ngồi đun vừa hờ khóc. Mẹ khóc nhưng nước mắt không chảy ra một giọt nào, có lẽ nước mắt cũng đã cạn. Chỉ thấy gương mặt mẹ hằn sâu thêm những vết nhăn như những vết nứt của ruộng mạ mùa khô hạn. Mẹ vừa khóc vừa hờ, mẹ hờ những lời kể lể không bao giờ vơi. Năm nào cũng vậy, vẫn những lời ấy, không thay đổi.

Chị không thể nằm thêm, dù còn buồn ngủ đến rã rời, nhưng đã thành thói quen, chị lẹ làng tuột khỏi tay thằng Tít, cột tóc, ra giếng rửa mặt cho tỉnh táo rồi cũng xuống bếp sửa soạn làm mâm cơm cúng dù trời còn chưa sáng. Gọi là mâm cơm cúng giỗ nhưng chỉ có một nồi cơm nếp và một đĩa thịt rang. Dứt khoát không được thêm thứ gì khác. Đó là bữa ăn cuối cùng mà Thuấn đi đến nơi làm việc, cách nhà những bảy, tám chục cây số.

Hôm đó cũng vào sáng sớm, chị cũng muốn làm một bữa ăn tươi thật xôm xả để tiễn Thuấn lên đường nhưng do nhà cũng chả còn gì mà chị thì bận quá, nên chị chỉ chạy vội ra chợ mua được vài lạng thịt ba chỉ về rang mặn để Thuấn ăn sáng, rồi theo xe của công ty lên bản Cài. Bữa cơm sáng chia tay hôm ấy, đơn giản mà cả nhà ăn rất ngon miệng.

Xem thêm: Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội Nguyễn Doãn Toản thăm, tặng quà người có công tại hai huyện Sóc Sơn, Mê Linh

Có lẽ là do Thuấn rất hào hứng với công việc sắp tới của mình, nên vừa ăn vừa cười nói rôm rả. Ăn xong, mẹ bảo gói hết chỗ cơm nếp và thịt rang còn lại vào lá chuối cho Thuấn mang đi. Chị gàn: Việc ăn uống có công ty lo cả, không sợ đói đâu. Thuấn cũng ngần ngại nhưng mẹ vẫn dứt khoát bắt Thuấn phải cầm: Ăn đâu, còn đâu cho anh em trong đội cùng ăn.

Mẹ nhớ cái ngày hôm ấy hơn bất cứ nỗi nhớ nào trong đời, ngay cả bây giờ mẹ quên gì thì quên nhưng đúng vào ngày Thuấn khăn gói lên đường là mẹ nhớ như in, nhớ cả ngày dương lẫn ngày âm, cả hình ảnh Thuấn bước đi ra đến cổng còn quay lại vẫy tay chào mẹ ra sao. Vậy nên hôm nay đâu phải ngày giỗ Thuấn, cũng không phải ngày người ta tìm được Thuấn đã rữa nát trong một hốc đá ven con suối ở bản Cài. Nhưng, ý mẹ là ý trời, chị không thể cãi lại mẹ và cũng không có quyền cãi. Bởi, theo như mẹ nghĩ, chính chị là người đã đẩy Thuấn vào chỗ chết. Cũng như vì chị mà anh trai Thuấn mới phải ra đi.

“Cái đồ đàn bà sát chồng, cái đồ quỷ tha ma bắt, cái đồ yêu tinh yêu quái hút máu ăn người. Mày là con quỷ cái hãm hại đàn ông, mày khôn hồn thì cuốn xéo khỏi nhà tao ngay, không thì còn một mụn đàn ông trong nhà này cũng phải mất mạng vì mày...”. Lúc đầu chị cũng điên ruột, định bế con ra đi thật, nhưng bà giằng lấy cu Tít, dứt khoát không cho chị mang nó đi đâu. Với lại, lúc đó nhìn vẻ mặt mẹ, chị hiểu rằng không thể bỏ mẹ mà ra đi được. Nỗi đau quá lớn đã khiến bà trở nên ngây ngây dại dại. Chị mà dứt áo ra đi thì mẹ chỉ có ngồi hờ khóc đến kiệt sức mà thôi.

Minh họa: Tô Chiêm

Chị ở lại, biết chắc sẽ phải chấp nhận cơn oán hận của mẹ, phải nhẫn nhịn chịu đựng nỗi đau của mẹ trút xuống bất kỳ lúc nào. Nhiều lần chị định xin bà gửi con về bên ngoại để chị yên tâm đi làm, nhưng bà vằn mắt nhìn chị như cái nhìn của con thú cùng đường, thế là chị lại thôi.

Chiều hôm qua, lúc chị vội vàng về để làm giỗ Thuấn, Tâm đã dúi vào tay chị tờ 500 ngàn bảo: Chị cầm về thắp giúp tôi nén hương cho Thuấn. Chị nhất định không cầm, bảo: Cậu làm gì có tiền mà bày vẽ. Tôi sống một mình không phải nuôi ai, chị còn nặng gánh, cho tôi đỡ một vai, nói rồi Tâm túm lấy bàn tay chị đặt tờ tiền vào lòng bàn tay, rồi còn bảo: Trời sắp tối, đường xa chị đi một mình thế này nguy hiểm lắm. Hay tôi đưa chị về nhá. Không, chị la lên như phải bỏng. Suýt nữa thì buột miệng: Đưa về có mà... bà ấy giết tôi.

Không hiểu sao những ngày gần đây, mẹ đã chuyển kênh chửi chị, bà chuyển sang chửi bóng chửi gió. Rằng thì là: Đàn bà mà ngủ đường ngủ chợ, đi cả tuần không về thì chỉ có đi đánh đĩ, rằng người ta nói không sai “Gái cầu đường như rương không khóa”. “Vợ góa thèm hơi trai như rễ khoai thèm phân lợn”. Cứ thế bà chửi như hát hay, chả hiểu nghe ai tỷ tê, mách lẻo mà bà cũng biết, gái cầu đường hay phải ngủ vạ ngủ vật trong lán trại, nay đây mai đó, chung chạ này kia.

Chị chỉ biết im lặng, mà có cãi, có thanh minh thì chỉ càng đổ thêm dầu vào cái đầu đang bốc hỏa của mẹ mà thôi, vì chị là gái góa, lại có chút nhan sắc, có không thèm đàn ông thì đàn ông cũng thèm chị. Ngày trước anh Thứ chồng chị cũng chỉ vì chết mê chết mệt chị nên nhất định không chịu chuyển sang đội khác làm có lương cao hơn mà cứ bám lấy đội sửa chữa đường này để khỏi phải xa chị.

Đội sửa chữa duy tu đường ăn lương khoán, vừa vất vả nặng nhọc lại lương thấp, một ngày công nhiều lắm chỉ trăm rưỡi đến hai trăm là cùng mà suốt ngày bận rộn không giờ giấc, cứ có sự cố mặt đường ở đâu là phải có mặt ngay, mà mặt đường thì luôn có sự cố bởi các phương tiện đi lại như rang lạc, không bong tróc sạt lở mới là lạ. Mùa mưa thì đường dễ lở loét, vì nước mưa xói mòn, chưa kể những vụ sạt lở phải làm ngày làm đêm để giải phóng mặt đường. Còn mùa hè thì thôi rồi, “nắng trên đầu và nhựa nóng dưới chân”, là câu ca mà dân làm đường luôn phải tâm niệm.

Chị học hết phổ thông, không có năng lực để thi đại học, cũng chẳng có tiền để đi học một cái nghề, may dịp ấy có một đội làm đường đến làng chị tuyển công nhân, chị đành theo cái nghề bán mặt cho đường bán lưng cho nắng này, đổi sức lao động lấy bát cơm là chính.

Anh là người duy nhất chưa vợ ở đội chị và cũng đã ngót nghét bốn mươi, chưa hề một mảnh tình vắt vai. Cũng như chị, anh có đi được đến đâu mà tán ai. Vậy thì đó là duyên trời rồi. Khi chị vác cái bụng sắp đến ngày sinh, đành phải ở nhà. Anh bảo: Cứ ở nhà dưỡng thai cho an toàn, anh sẽ làm thay phần việc của em. Thế là anh làm từ sáng sớm đến tối mịt, ngày nào cũng thế. Người ta bảo hôm ấy trời nắng to lắm, nhiệt độ trên mặt đường lên tới 42 độ C, anh vào nghỉ ăn trưa xong, rồi vắt chiếc khăn mặt ướt ra gốc cây mắc võng nằm vì trong lán nóng như lò rang, đến khi người ta gọi dậy đi làm thì anh không nhúc nhích, người ta vội vàng đưa đi cấp cứu nhưng anh không tỉnh dậy được nữa. Anh đi nhẹ nhàng như đang ngủ.

Xem thêm: Làng đào 'nổi tiếng' ở Nam Định có nguy cơ 'lỡ' Tết Nguyên đán do bị ngập úng nhiều ngày

Thuấn lúc đó vừa đỗ vào lớp 10 trường công của huyện nên mẹ cũng nguôi ngoai bớt nỗi mất mát người con trai cả. Thuấn học giỏi, là niềm tự hào của cả nhà. Thuấn hay mơ ước được trở thành kỹ sư cầu đường, thường bảo: Bố và anh đã từng là công nhân cầu đường rồi thì em cũng theo nghề, nhưng em sẽ là kỹ sư, em sẽ tìm ra những sáng kiến để giảm bớt nặng nhọc cho những người công nhân cầu đường.

Nhưng, khi Thuấn trúng tuyển vào Khoa Đường bộ Trường Đại học Giao thông - Vận tải thì Thuấn lại ngồi thừ ra. Chị hỏi. Thuấn bảo: Có khi em không đi học đâu, chị ạ. Sao vậy? Làm gì có tiền mà đi học chị. Ừ nhỉ, chị cũng chợt nhớ ra. Lương của chị mấy năm nuôi mấy mẹ con bà cháu và đứa em còn chưa đủ nữa là, làm gì còn đồng tiết kiệm nào mà cho em tựu trường chứ nói gì đến ăn học mấy năm. À, hay thế này, em cứ xin nhà trường bảo lưu kết quả đại học một năm đi, một năm chị xin cho em vào làm hợp đồng ở công ty chị. Tiền lương em cứ giữ lấy gửi tiết kiệm mà đi học.

Thuấn cũng đồng ý với phương án ấy của chị. Nhưng, mẹ thì giãy nảy lên: Nó đỗ đại học mà bây lại bảo nó đi làm công nhân là sao. Cứ để nó đi. Tao theo lên Hà nội làm ô sin, hay đi bán gì đấy, kiếm tiền nuôi nó ăn học. Thuấn cũng an ủi mẹ: Con đi làm vừa có tiền tiết kiệm để ăn học, vừa có thêm kiến thức thực tế, biết đâu lại bổ ích cho quá trình học tập ấy chứ. Thế là mẹ xuôi xuôi, nhưng cứ xuýt xoa: Con người ta đỗ đại học thì ngả trâu ăn mừng, còn nhà mình thì buồn như đưa đám.

Dịp ấy công ty chị trúng gói thầu xây dựng một chiếc cầu trên bản Cài. Bản Cài nằm trên một ngọn núi thuộc huyện vùng sâu vùng xa của tỉnh. Con đường độc đạo nối cư dân bản Cài với cộng đồng của huyện phải đi qua một con suối rộng và sâu, nhưng quanh năm nước chỉ đến đầu gối, trẻ con người lớn đều dễ dàng lội qua, hoặc bước trên những tảng đá nằm dày đặc trong lòng suối, nước luôn trong văn vắt, là điểm VIP của khối nghệ sĩ nhiếp ảnh thường xuyên đến đây. Thế nhưng, vào mùa lũ thì nó trở nên hung dữ vô cùng. Nước trên nguồn đổ về như thác, đỏ ngầu cuồn cuộn, cuốn phăng phăng những cành cây gãy đổ.

Chỉ tại em cố lội xuống để đẩy một khúc cây to đang mắc vào móng cầu mới dựng, em sợ cây gỗ thúc sập móng, tiếc công anh em thợ đã mấy ngày làm vất vả. Em đã buộc dây bảo hộ rồi nhưng vì nước xiết quá đã làm đứt dây, lôi tuột em đi theo dòng nước. Tất cả đành bất lực trước cơn hung hãn của dòng lũ, mãi 10 ngày sau, người ta mới tìm được em. Không ai dám báo cho mẹ, mẹ cứ giục chị lên thăm em. Mẹ mua đủ thứ để chờ ngày chị đi gửi cho em. Chị biết ở trên đó em cũng không đến nỗi thiếu thốn gì, nhưng chắc là buồn và nhớ nhà lắm, mà lúc nào em cũng phấn khởi kể cho chị bao nhiêu là chuyện.

Hôm nay chị cùng tổ công đoàn của công ty lên bản Cài để đưa Thuấn về, theo đúng lời hứa của công đoàn công ty là khi nào sang cát cho Thuấn công ty sẽ lo chu đáo mồ yên mả đẹp tại nghĩa trang quê nhà.

Không biết ở đó Thuấn có buồn không, có nhớ nhà không, Thuấn có trách chị không. Cho mãi đến hôm nay, chị vẫn không tài nào xua tan được nỗi áy náy. Mẹ đã chửi chị thậm tệ vì cái tội không cho em về gần mẹ. Chị thật có lỗi với em với mẹ nhiều lắm.

Cũng lạ, những người thợ cầu đã rời đi lâu rồi, xung quanh cầu không có một nhà dân nào, tất cả đều vắng lặng, vì không phải lúc nào cũng có người qua lại, thế mà lần nào chị lên đây thăm em cũng thấy có một bó hoa còn tươi nguyên. Ai nhỉ, chẳng lẽ lại là của các em học sinh hằng ngày qua cầu đi học? Thấy bảo trưởng thôn bản Cài đã lấy tấm gương của em để giáo dục học sinh bản về gương lao động hy sinh của người công nhân làm cầu, dạy dỗ các em phải ghi nhớ công lao của những người thợ cầu đã bất chấp nguy hiểm để đem lại niềm hạnh phúc cho người dân, đem lại cuộc sống ấm no và con chữ cho các em đến trường.

Lãnh đạo công đoàn công ty và đại diện thôn bản đã làm xong thủ tục để đưa hài cốt Thuấn về với đất quê nhà. Tối đó chị phải ngủ lại trong căn nhà của trưởng bản để sáng sớm mai bốc mộ Thuấn. Bỗng, chị thấy một cô gái từ chiều tới giờ cứ loanh quanh ở nhà trưởng bản, bảo để nấu cơm giúp trưởng bản tiếp đoàn khách, nhưng thỉnh thoảng chị bắt gặp cô ta cứ liếc trộm chị và hình như không chú tâm vào công việc lắm nên cứ bị vợ trưởng bản mắng suốt. Ăn chiều xong, chị quyết tâm làm quen với cô gái xem cô ta muốn gì mà cứ để ý đến chị hoài thế.

Đúng như dự đoán, cô ta đã chủ động gặp khi chị nhìn thẳng vào cô gái và gật đầu như khích lệ. Khi chỉ có hai chị em đứng trên cây cầu, cô gái nắm lấy bàn tay chị với giọng da diết cầu cứu: Chị ơi, chị có thể mang anh ấy đi nhưng để lại tấm bia cho em được không? Để làm gì hả em? Em... em muốn để ngôi mộ anh ấy ở đó, để hằng ngày em vẫn được cùng anh trò chuyện. Ôi, té ra điều chị luôn thắc mắc là đây rồi, bó hoa tươi luôn nằm dưới chân bia là đây.

Chị nắm chặt lấy tay cô gái, nói như người hụt hơi vì hồi hộp: Em, em có phải là người yêu của Thuấn không, em nói thật đi, chị rất mong... Cô gái khe khẽ gật đầu, miệng cười e thẹn. Cũng mới thôi chị ạ, chúng em mới chỉ... Anh ấy chỉ hứa, làm cầu xong anh ấy sẽ đưa em về gặp mẹ và chị. Thế mà... Cô gái bỗng nấc lên nghẹn ngào. Không hiểu sao chị bỗng hỏi hối hả: Em với Thuấn có để lại gì cho nhau không? Để gì ạ? Là... là... là có với nhau một đứa con ấy, có không? Chị hỏi mà thấy tim mình đập rộn lên vì hồi hộp, chỉ mong cô gái gật đầu thì chị có thể nhảy lên ôm chầm lấy cô mà sung sướng. Mẹ chị sẽ hết bệnh, nhà chị sẽ lại đủ số đàn ông trong nhà.

Nhưng, cô gái nhè nhẹ lắc đầu. Chúng em mới chỉ ngồi bên nhau nói chuyện thôi, chị ạ. Nhiều lúc em cũng muốn trao cho anh ấy tất cả khi chỉ có hai đứa ở bên nhau trong rừng, nhưng... anh Thuấn là một người trai tốt. Trời ơi, tiếc thế! Chị bỗng thốt lên thật vô thức. Giá như, giá như, nếu không thì mẹ chị đã có thêm đứa cháu mấy tuổi rồi.

Đã gần tuần nay chị không về nhà. Việc của Thuấn xong xuôi, mẹ cũng hình như đỡ bệnh, mẹ không chửi chị nữa, con cũng lớn rồi, đã tự đi học được rồi. Căn lán chỉ có mấy chị em, cũng đều có gia đình, đều xa nhà. Nhiều khi chị cũng cảm thấy buồn, thấy nhớ con và tủi phận vợ góa con côi, nhưng mỗi lần chợt ngẩng lên nhìn về phía cuối con đường vẫn chỉ thấy mịt mù khói bụi, không có một tia sáng nào để chị hy vọng. Tâm vẫn lặng lẽ giúp chị như đã hứa là đỡ cho chị một vai. Tâm kém chị những ba tuổi.

Với lại, như mẹ chị vẫn nhiếc móc là tướng sát chồng, chẳng biết có đúng thế không mà đàn ông cứ thân thiết với chị đều yểu mệnh cả. Có lần chị đã bóng gió rằng số chị vất vả không muốn ai phải khổ lây. Nhưng, Tâm bảo: Tôi con nhà nghèo, được ai thương là quý lắm rồi, không dám chọn lựa. Nói vậy nhưng ai cũng thừa biết Tâm mê cái lúm đồng tiền của chị, còn Tâm thừa hiểu không dễ mà tìm được một bông hoa thắm sắc đượm hương trong cái nơi rặt đất đá này.

Đang làm việc thêm giờ bỗng một chị trong tổ bảo chị về lán ngay, có mẹ đang chờ. Ô, lại có chuyện gì nữa đây, sao mẹ bỗng dưng lặn lội đến thăm chị thế này. Chị hớt hải chạy về lán trại thì thấy hai bà cháu đang tươi cười trò chuyện với mấy chị. Có chuyện gì mà mẹ lên tận đây thế, hai bà cháu đi bằng gì? Tao bắt xe ôm chứ đi bằng gì, thằng Tít nó muốn đến xem mẹ nó làm việc thôi. Cái thằng mới nứt mắt ra đã thích theo nghề, cha tiên sư cái nòi nhà đập đá vá đường. Sân nhà có mấy chỗ lở đất, thế là nó đi kiếm đá sỏi về đổ vào rồi lấy đất đắp lên, đập đập cho phẳng, trông cũng đẹp ra phết.

Chị ôm cu Tít vào lòng bảo: Thôi, con đừng mơ ước cái nghề này làm gì, vất vả lắm. Ứ, con thích, mẹ cho con lên đây ở với mẹ để con giúp mẹ. Thôi đi, ông tướng có mà quấy tôi thì có. Cả lán cùng cười vang. Bỗng, mẹ nhìn quanh rồi như chờ ai ở phía ngoài đường và thì thầm vào tai chị: Nghe các chị ấy bảo có cái cậu gì, cũng hiền lành tốt bụng lắm, hay giúp con đúng không? Chiều nay nghỉ sớm, bảo cậu ấy về đây ăn cơm. Mẹ mang con gà với ít rau lên đây này, làm bữa cơm thân mật mời cả tổ cùng ăn nhé. Chị ngớ người như muốn khuỵu xuống, không phải vì cảm động bởi mẹ đã không còn ghen bóng ghen gió nữa mà vì cái tiếng con đã lâu lắm rồi chị không được nghe.

Truyện ngắn của Nguyễn Cẩm Hương